Ở
phía bắc huyện từ Khe Giữa đến bản Son đi lên 2 km có làng Tăng-ki-xa-khía gần
đường 22 (tây Trường Sơn) đi vào làng Ho khoảng 8 km; đi ra xã Trường Sơn
(Quảng Ninh) 7 km. Từ Khe Giữa đi dần về xuôi ở vùng đại thủy nông Cẩm Ly, bà
con dân tộc Vân Kiều quy tụ vào đây khá nhiều. Cả hai vùng Khe Giữa, Cẩm Ly có
khoảng 30 gia đình hình thành ra xã Đình Phùng nay là hai xã Lâm Thủy và Ngân
Thủy (Hiện nay ba xã nói trên có gần 800 hộ gia đình và gần 3000 nhân khẩu).
Hình
ảnh về cảnh sinh hoạt của bà con bên khe suối
1.
Đời sống: Trước năm 1945, đồng bào sống du kênh du cư,
quanh năm dựa vào rừng xanh với lối canh tác cốt, đốt, trỉa. Mỗi vùng rẫy của
mỗi gia đình rộng trên dưới 1-2 ha. Rẫy rộng hẹp tùy thuộc vào số lao động của
mỗi gia đình. Trong rẫy có đủ loại cây trồng từ lúa đến bo bo, cà, kiệu, sắn
(củ mì) là thứ được trồng đại trà. Nhờ có lớp tro rất dày và đất xốp, cây trồng
cứ thế lên xanh mặc mưa ngàn gió núi và nắng lửa. Không cần làm cỏ, bón phân mà
vẫn có ăn. Cái khó của rẫy là phải dày công đào hào chung quanh vùa đơm thú
rừng lấy thịt vừa ngăn chúng phá hoại.
Tuy
nhiên, do đời sống tách biệt với miền xuôi và ngay trong mỗi bản thì mỗi nhà
một đồi với cung cách làm ăn từ ngàn xưa để lại không mấy thay đổi nên lạc hậu
vẫn cứ lạc hậu. Khi ốm đau thì không cần thuốc thang, họ chỉ tin vào thầy mo
cúng bái.
Tính
cách của người Vân Kiều thật thà chất phác, cần cù tiết kiệm, khéo tay hay làm,
nhân hậu bao dung, căm thù kẻ địch đến cướp phá. Với cha con, anh em thì hiếu
để, với bạn bè thì tin tưởng, với vợ chồng thì thủy chung son sắt, tuyệt đối
trung với Đảng, Bác Hồ. Khi anh chết, em đưa cháu về nuôi và chị dâu cũng đưa
về nuôi làm vợ (tục nối dây). Cách nghĩ của họ thật đơn giản: “Bếp mình để gà
ai bươi”. Gia đình nói chung là êm đẹp do người chồng biết ăn ở cân phân và
người vợ cũng biết thân phận mình.
Do
chế độ phong kiến áp bức, chế độ tù trưởng hà khắc; do tập tục ăn ở lạc hậu nên
cuộc sống của bà con quá kham khổ. Họ ăn khoai sắn trừ cơm, uống nước lã không
nấu, ngủ màn trời chiếu đất, ngày đêm làm bạn với muỗi rừng, sên vắt nên đời
sống mòn mỏi, nạn hữu sinh vô dưỡng tràn lan, đẻ 5 con chỉ nuôi được một hai
đứa. Vì vậy dân số chửng lại không phát triển.
Cách
mạng tháng tám thành công, ánh sáng của Đảng Bác Hồ đã rọi khắp buôn làng dân
tộc Vân Kiều. Cuộc sống của họ dần dần được định canh định cư. Nhiều bản làng
miền núi đã hướng về miền xuôi. Có vùng như bản Cây Bông, bản Cây Khế ở phía
nam, bản Cẩm Ly ở phía bắc nhà cửa khang trang, tường xây ngói đỏ. Trường học
về tận bản mang cái chử đến cho con em dân tộc Vân Kiều các bản ở xa, con em về
ở khu nội trú ăn ở tập trung. Từ năm 1993 trở về sau, huyện thành lập trường
dân tộc nội trú tại xã Mai Thủy đã thu hút nhiều học sinh dân tộc Vân Kiều từ
ba xã Lâm Thủy, Ngân Thủy và Kim Thủy.
Trong
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bà con dân tộc Vân Kiều một lòng một dạ đi
theo cách mạng. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, khi kê khai danh sách cử tri trong kỳ
bầu cử quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa đầu tiên, bà con Vân Kiều
không có họ nên lấy họ Hồ của chủ tịch Hồ Chí Minh làm họ của mình. Ngày 16
tháng 6 năm 1957, Bác Hồ vào thăm Quảng Bình. Đồng chí Hồ Đuồng - Bí thư kiêm
chủ tịch xã Hàm Nghi được tham gia trong đoàn đại biểu huyện Lệ Thủy về thăm
Bác Hồ tại Đồng Hới. Đồng chí xin phép được gặp Bác để báo cáo với Người về
việc người Vân Kiều tự tiện lấy họ Hồ làm họ cho dân tộc mình. Bác rưng rưng
xúc động và đông ý việc làm đầy tình nghĩa của bà con đối với Bác.
Những
năm dài kháng chiến, người miền núi huyện Lệ Thủy không từ nan một việc gì khi
tổ quốc cần. Bà con Vân Kiều không tiếc máu xương chiến đấu và phục vụ chiến
đấu đóng góp công sức cùng quân dân cả nước bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh.
2.
Phong tục tập quán:
- Tục
nối dây: Anh chết để lại vợ cho em lấy, để con lại cho em nuôi.
- Tục
cà răng, căng tai: Tục này có từ xưa khi trẻ con còn thơ, dùng đá nhám cà răng
trẻ mòn sát tận chu. Tai con gái không chỉ xâu một lổ nhỏ để đeo hoa tai trang
điểm như người Kinh mà căng rộng ra trong rất kì dị không chỉ xấu về hình thức
mà đau đớn về thể xác. Có trường hợp nhiểm trùng uốn ván gây chết người. May
thay, tục cà răng, căng tai đã không còn.
- Tục
cúng bái tế lễ: Người Vân Kiều không cúng cha mẹ theo ngày mất vì không nhớ
ngày nhưng bên góc nhà treo cao có oi, giỏ trang trí hoa lá, có thắp hương khấn
vái ông bà.
Đối
với con cũng không nhớ ngày sinh để làm lễ sinh nhật. Muốn kể tuổi con, tuổi
cha mẹ cứ nhớ tên ấy đã qua mấy mùa rẫy.
Người
Vân Kiều đặc biệt quan tâm đến cúng quảy, ma mót, ông bà tiên tổ, những người
có công (thần thánh) với những lễ hội trang nghiêm có khi cúng rất to gồm: trâu
bò quay, có xôi từng nôống, có rượu từng chum, từng vò. Khi tế lễ có kèn,
trống, chiêng múa hát tưng bừng. Ngoài lễ vật bình thường, bà con chú ý đến đầu
con càng nhiều càng quý. Cứ mỗi đầu con là một mạng sinh vật. Do suy nghĩ vậy
nên có khi có nhà cúng đến vài chục con gà con mới hú đuôi tôm trong một lễ.
- Ma
chay: Ngày xưa khi có cha mẹ chết thì con cháu bó xác người thân vào một chiếc
chiếu cột thẳng theo một thanh gổ dài rồi hai người khiêng hai đầu đưa ra rừng
chôn. Đắp mộ xong là phó thác cho núi rừng. Làm rẫy ở vùng nào thì chôn cất
người thân ở vùng đó chứ không có một nghĩa trang nhất định. Dần dần, cuộc sống
ổn định mới có săng ván ghép lại làm áo quan. Thậm chí bà con còn khoét những
khúc gỗ rất to, rất quý để đưa thi thể người thân vào một cách trang trọng tôn
nghiêm.
- Tục
đi sim: (Từ sim có lẻ xuất phát đi ra đồi sim). Trai, gái đến tuổi dậy thì là
biết đi sim. Khác với miền xuôi. Ngày xưa “nam nữ thọ thọ bất thân” trai gái
cấm kị không được gần nhau, thân mật như vợ chồng. Đến khi dựng vợ gả chồng thì
việc quan hệ nam nữ có phần khá hơn. Từ thế hệ này qua thế hệ khác, trai gái
Vân Kiều quan hệ không chút dè dặt e ấp. Họ kéo nhau ra đồi sim hẹn hò chỉ thề
non núi, đầu thì trăng gió sau ra mây mưa mà không để lại một hệ lụy, thiệt
thòi gì cho đời người con gái.
Nhờ
đâu mà người con gái Vân Kiều có vẻ văn minh như các nước Âu - Mỹ? Là nhờ trước
khi đi sim, người con gái Vân Kiều đã được mẹ trao cho một nắm lá rừng làm vật
“bảo bối”. Đã có thứ “bảo bối” đó ngậm vào miệng thì dù có “gần gũi” với con
trai cũng không có vấn đề gì xãy ra nhưng nó chỉ ngậm chứ không nhai nuốt. Nuốt
vào bụng thứ lá ấy sẽ triệt sản suốt đời. Rừng núi Trường Sơn có thứ lá độc đáo
ấy thật là tuyệt. Người dân miền núi giữ kín nó một cách tuyệt đối từ đời này
sang đời khác. Đó là bản sắc văn hóa độc đáo, độc nhất vô nhị của người dân
miền núi Lệ Thủy (Quảng Bình).
BBT